Ở trong nước, chúng ta bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015 với nhiều thuận lợi, chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế từ năm 2009 phát huy hiệu quả. Kết thúc kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, tăng trưởng kinh tế đạt bình quân khoảng 7,0%/năm. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và hoàn thành nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ. Tuy nhiên, những hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh tế cùng với mặt trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại nặng nề. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nhu cầu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, cải thiện môi trường sống và bảo đảm quốc phòng an ninh ngày càng cao trong khi nguồn lực còn hạn hẹp.
Trong bối cảnh đó nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm được đề ra trên cơ sở tăng trưởng khá cao của 5 năm trước và chưa lường hết được hậu quả tiêu cực của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu tác động nặng nề đến nền kinh tế nước ta. Trước diễn biến mới của tình hình, ngay sau Đại hội XI, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời điều chỉnh mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm theo hướng tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội... Quốc hội đã ban hành các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm. Chính phủ đã quản lý, điều hành quyết liệt thực hiện các nghị quyết của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tế tình hình. Đây là những quyết sách kịp thời, đúng đắn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, toàn Đảng, các ngành, các cấp đã dành nhiều thời gian, công sức để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và sửa đổi Hiến pháp....Nhờ vậy tình hình kinh tế xã hội trong năm 2013 nói chung, trong 3 năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015 đã có nhiều chuyển biến tích cực, đúng hướng trên các lĩnh vực và đạt được một số thành tích, kết quả đáng kể. Cụ thể
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát
Chúng ta đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tài khóa và tiền tệ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm từ 18,13% năm 2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 9 tháng năm 2013 là 4,63%, dự báo cả năm khoảng 7% (kế hoạch khoảng 8%).
Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý [Tốc độ tăng tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 33,3%/năm, giảm còn 14,45 % năm 2011 và 8,85% năm 2012; 6,82% trong 9 tháng đầu năm 2013, ước cả năm khoảng 12%]. Mặt bằng lãi suất huy động và lãi suất cho vay giảm mạnh [Tính theo lãi suất năm, mặt bằng lãi suất huy động giảm 7 - 10 %, lãi suất cho vay giảm 9 - 12 %; riêng 9 tháng năm 2013 lãi suất huy động giảm 2 - 3 %, cho vay giảm 3 - 5 %. Mặt bằng lãi suất cho vay đã trở về mức của giai đoạn 2005 - 2006]. Tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng nhanh, đạt mức khoảng 12 tuần nhập khẩu [Dự trữ ngoại hối nhà nước vào cuối năm 2010 là 6 tuần nhập khẩu]. Tình trạng đô-la hóa, vàng hóa giảm đáng kể. Niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên.
Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để đẩy mạnh xuất khẩu. Xuất khẩu 9 tháng tăng 15,7%, ước cả năm tăng 14,4% (kế hoạch 10%); bình quân 3 năm tăng 22%/năm (kế hoạch 5 năm 12%/năm). Nhập khẩu năm 2013 ước tăng 15,6%, nhập siêu khoảng 0,4% tổng kim ngạch xuất khẩu (kế hoạch 8%). Cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt [Năm 2011 nhập siêu 9,8 tỷ USD, bằng 10,1% kim ngạch xuất khẩu; năm 2012 xuất siêu 750 triệu USD; ước năm 2013 nhập siêu 500 triệu USD, bằng 0,4% kim ngạch xuất khẩu.]. Quan hệ thương mại và đầu tư tiếp tục được mở rộng với hầu hết các quốc gia và nền kinh tế.
Tăng cường quản lý ngân sách, chống thất thu và tiết kiệm chi. Năm 2011 - 2012 đã cố gắng cân đối ngân sách theo kế hoạch. Năm 2013, thu ngân sách khó khăn, tổng thu ước đạt 96,9%, tổng chi ước đạt 100,8% dự toán. Bội chi khoảng 5,3% GDP. Nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn [Đến cuối năm 2013, dư nợ công ước khoảng 56,2% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 42,6% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 39,5% GDP].
Thị trường trong nước tiếp tục phát triển. Hàng tồn kho giảm mạnh [Chỉ số hàng tồn kho của ngành chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/9/2013 chỉ tăng 9,3% so với mức tăng 21,5 % tại thời điểm 01/01/2013]. Giá cả các hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu như điện, xăng dầu, than, y tế… từng bước được thực hiện theo cơ chế thị trường với lộ trình phù hợp gắn với hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo.
Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Vốn FDI đăng ký mới và thực hiện năm sau cao hơn năm trước, chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và đã tập trung hơn vào công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao. Chín tháng, vốn FDI đăng ký tăng 36,1%, vốn thực hiện tăng 6,4%; vốn ODA ký kết tăng 8,83%, giải ngân tăng 8,68%. Cùng với các nguồn vốn khác đang được huy động, tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2013 ước đạt 29,1% GDP.
2. Kinh tế có bước phục hồi
Đã tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, hàng tồn kho và hướng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên [Trong 9 tháng đầu năm 2013, tín dụng cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 19,85%, nông nghiệp, nông thôn tăng 15,5%, công nghiệp hỗ trợ tăng 5,98%]. Năm 2011 tăng trưởng GDP đạt 6,24%, năm 2012 chỉ đạt 5,25%; năm 2013 tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 4,76%, quý II tăng 5%, quý III tăng 5,54%), cả năm ước tăng khoảng 5,4%. Bình quân 3 năm, GDP tăng khoảng 5,6%/năm [Theo IMF, kinh tế thế giới tăng 3,9% năm 2011, 3,2% năm 2012 và ước tăng 2,9% năm 2013; các nước mới nổi và đang phát triển tăng 6,2% năm 2011, 4,9% năm 2012 và ước tăng 4,5% năm 2013. Khu vực ASEAN tăng 4,8% năm 2011 và 5,7% năm 2012. Theo IMF, bình quân 3 năm 2011 - 2013 ước tăng 5,1%]. Sản xuất công nghiệp, xây dựng từng bước được phục hồi; khu vực nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định; các ngành dịch vụ tăng trưởng khá [sản xuất công nghiệp 9 tháng tăng 5,4%, ước cả năm tăng 5,6%. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,71%, ước cả năm tăng 2,81%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,5%, cả năm ước tăng 14-16%.]. Trong 9 tháng, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 10,8% và có trên 11,2 nghìn doanh nghiệp đã hoạt động trở lại.
Chất lượng tăng trưởng có bước được nâng lên. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn [Trong giai đoạn 2008 - 2010, với tổng mức đầu tư toàn xã hội/GDP bình quân 38,6%/năm, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 6,1%/năm; giai đoạn 2011 - 2013 với tổng mức đầu tư toàn xã hội/GDP bình quân giảm còn khoảng 31%/năm, giảm 7,6% so với giai đoạn 2008 - 2010, nhưng tăng trưởng GDP bình quân chỉ giảm 0,7%, đạt 5,37%/năm (tính theo giá so sánh 1994)].
3. Tái cơ cấu kinh tế đạt kết quả bước đầu
Đã tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện Đề án tổng thể đã được phê duyệt, các ngành, các địa phương tích cực xây dựng và triển khai các đề án, chương trình hành động; rà soát nâng cao chất lượng quy hoạch; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ; thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp, sản phẩm, thị trường.
Về tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Đã điều chỉnh cơ cấu và cơ chế phân bổ vốn đầu tư; tập trung vốn cho các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết và vốn đối ứng cho các dự án ODA. Kiểm soát chặt chẽ các dự án, công trình khởi công mới, khắc phục một bước tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý đầu tư, bảo đảm quản lý thống nhất của trung ương, tăng cường trách nhiệm của địa phương và chủ đầu tư. Đẩy mạnh thu hút đầu tư xã hội. Tỷ trọng vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng từ 61,3% giai đoạn 2006 - 2010 lên 62,6% giai đoạn 2011 - 2013.
Về tái cơ cấu tài chính, tín dụng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại. Đã triển khai đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và đạt được kết quả bước đầu. Hoạt động của hệ thống ngân hàng được kiểm soát và bảo đảm an toàn. Các ngân hàng yếu kém được cơ cấu lại [Năm 2012 và 9 tháng đầu năm 2013, đã giảm 5 tổ chức tín dụng thông qua sáp nhập, hợp nhất, giải thể; rút giấy phép 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đã cổ phần hóa 4 ngân hàng thương mại nhà nước. Chuyển Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương thành Ngân hàng Hợp tác xã]. Thanh khoản được cải thiện, sức cạnh tranh của nhiều ngân hàng thương mại được nâng lên. Hoàn thiện các quy định về an toàn và tăng cường giám sát, thanh tra hoạt động của các tổ chức tín dụng. Chủ động xử lý nợ xấu, kiềm chế nợ xấu gia tăng [Trong 8 tháng đầu năm 2013, tốc độ tăng nợ xấu bình quân là 2,52%/tháng, giảm đáng kể so với tốc độ tăng bình quân 3,91%/tháng cùng kỳ năm 2012]. Rà soát, ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đã tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Triển khai thực hiện nhiều văn bản pháp luật theo hướng tăng cường quản lý nhà nước và xác định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp; đề cao trách nhiệm, phát huy tính tự chủ và công khai minh bạch của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế [Nghị định 50 về quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng; Nghị định 51 về chế độ tiền lương đối với viên chức quản lý; Nghị định 61 về quy chế giám sát tài chính, đánh giá kết quả hoạt động và công khai thông tin tài chính; Nghị định 71 về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước và Nghị định; Quyết định 35, Chỉ thị 17 của Thủ tướng Chính phủ.... Đang nghiên cứu, soạn thảo gần 30 đề án, văn bản quy phạm pháp luật].
Đã triển khai Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2015, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và cung ứng các dịch vụ công thiết yếu, quốc phòng an ninh [Đã phê duyệt các đề án tái cơ cấu của 68 tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Đã dừng thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế đối với 2 tập đoàn trong ngành xây dựng, chuyển đổi Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam thành Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy]. Thực hiện tái cơ cấu từng tập đoàn và tổng công ty, phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động, xác định nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh chính, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, đẩy mạnh cổ phần hóa. Hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước có bước được cải thiện [Hiện nay, khoảng 80% doanh nghiệp nhà nước hoạt động có lãi.] phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa [Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản trong GDP giảm từ 20,6% năm 2010, xuống còn khoảng 19,3% năm 2013. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 48,4% năm 2011, còn 47,4% năm 2012 và ước 47% năm 2013. Tỷ trọng dân số nông thôn giảm từ 69,5% năm 2010 xuống còn 68,25% năm 2011, còn 68,06% năm 2012 và ước 67,6% năm 2013]. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, đã tập trung phát triển các ngành có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản. Quản lý nhà nước về đô thị được tăng cường. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 30,5% năm 2010 lên 33,4% năm 2013.
Về nông nghiệp, triển khai Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tập trung chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng các vùng chuyên canh, sản xuất quy mô lớn, khu nông nghiệp công nghệ cao, liên kết sản xuất với chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được tích cực triển khai. Nông thôn có nhiều đổi mới, nhất là về kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của người dân tiếp tục được cải thiện [Đến nay cả nước đã có 93% số xã có quy hoạch nông thôn mới. Bình quân mỗi xã đạt 8,06 tiêu chí (tăng thêm 3,09 tiêu chí so với năm 2010); đã có 75 xã được công nhận đạt chuẩn. Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh ước đạt 82% (tăng 7% so với năm 2010). Tỷ lệ hộ dân có nhà vệ sinh theo tiêu chí mới đạt 61% (tăng 9% so với năm 2010). Hệ thống thủy lợi đáp ứng 73,6% nhu cầu sản xuất, dân sinh]. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch tích cực; tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp trong kinh tế nông thôn giảm [Giảm từ 40,9% năm 2011 xuống còn 39% năm 2012]; tỷ trọng lao động nông nghiệp trên địa bàn nông thôn giảm từ 49,5% năm 2010 xuống còn 47% năm 2013.
Trong lĩnh vực dịch vụ, từng ngành và doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu theo hướng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và tập trung phát triển các lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học công nghệ và giá trị gia tăng cao như công nghệ thông tin, truyền thông, tài chính - ngân hàng, vận tải, logistics, du lịch, thương mại, phân phối... Tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khá cao liên tục trong 3 năm qua [Tăng trưởng khu vực dịch vụ năm 2011 đạt 6,8%, năm 2012 đạt 5,9%, năm 2013 ước đạt 6,56%, cao hơn mức tăng của các khu vực khác và cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP].
4. Ba đột phá chiến lược được triển khai đồng bộ và đã đạt được một số kết quả
Thể chế kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội và phát huy quyền làm chủ của người dân. Tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi Hiến pháp. Hoàn thành cơ bản chương trình xây dựng luật, pháp lệnh [Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội 59 dự án luật, pháp lệnh; trong đó 44 dự án đã được thông qua; tại kỳ họp này trình Quốc hội thông qua và cho ý kiến 20 dự án luật. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành trên 2.200 văn bản quy phạm pháp luật. Từ đầu năm 2011 đến ngày 18/10/2013, đã ban hành 369 nghị định của Chính phủ, 190 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 1.701 thông tư của Bộ, cơ quan ngang Bộ]. Chất lượng văn bản được nâng lên và từng bước khắc phục tình trạng chậm ban hành.
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy các bộ ngành, địa phương. Đổi mới chế độ công vụ, công chức, tăng cường công khai minh bạch, đề cao trách nhiệm người đứng đầu và trách nhiệm giải trình. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Triển khai trên diện rộng cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cấp huyện. Đã đơn giản hóa trên 3.600 thủ tục hành chính. Tiếp tục cải cách thủ tục, giấy tờ công dân và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư.
Về phát triển nguồn nhân lực. Đã triển khai thực hiện quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực [Đã ban hành Chiến lược, Quy hoạch phát triển nhân lực, Chiến lược phát triển dạy nghề, Chiến lược phát triển giáo dục, Chiến lược phát triển khoa học công nghệ, Luật giáo dục đại học, Luật khoa học và công nghệ…Gần đây Hội nghị lần thứ 8 BCHTW khóa XI đã ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo]. Mạng lưới và quy mô giáo dục đào tạo được mở rộng, chất lượng có bước được nâng lên [Đến nay, cả nước có 13.720 trường mầm non, 15.407 trường tiểu học, 10.837 trường trung học cơ sở, 2.714 trường trung học phổ thông, 1.330 cơ sở dạy nghề (157 trường cao đẳng nghề, 304 trường trung cấp nghề, 869 trung tâm dạy nghề), 562 trường trung cấp chuyên nghiệp, 204 trường đại học và 216 trường cao đẳng]. Quan tâm phát triển giáo dục đào tạo ở các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách. Nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo từng bước được điều chỉnh. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo gắn với nhu cầu thị trường [Trong 3 năm 2011 - 2013, đã đào tạo nghề cho 1,1 triệu lượt lao động nông thôn, tỷ lệ có việc làm sau học nghề là 79%, số hộ nghèo sau học nghề đã thoát nghèo là 44%; đã cử 3.272 người đi đào tạo tại nước ngoài, trong đó có 1.345 người để làm tiến sỹ, 666 người học thạc sỹ và 1.071 người học đại học]. Công tác thi cử, kiểm định chất lượng, ứng dụng công nghệ thông tin, dạy và học ngoại ngữ có bước tiến bộ. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho dạy và học [Trong 3 năm đã kiên cố hóa được 37.400 phòng học và 5.882 phòng nhà công vụ giáo viên]. Đội ngũ giáo viên phát triển mạnh về số lượng, chất lượng có bước được nâng lên ]. Quyền tự chủ của các cơ sở đào tạo được mở rộng. Thanh tra, kiểm tra được tăng cường. Thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên nghèo [Trên 2,3 triệu học sinh, sinh viên đang được vay với tổng dư nợ gần 40 nghìn tỷ đồng]. Nhiều học sinh Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực [Năm 2011 đoạt 23 huy chương, năm 2012 đoạt 31 huy chương, năm 2013 đoạt 36 huy chương]. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 49% năm 2013.
Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương, Luật, chiến lược và các chương trình về khoa học công nghệ. Quản lý nhà nước về khoa học công nghệ được đổi mới. Tiềm lực khoa học công nghệ được tăng cường một bước [Đã hoàn thiện 16 phòng thí nghiệm trọng điểm. Ba khu công nghệ cao tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng được đầu tư xây dựng và từng bước đưa vào khai thác]. Số công trình nghiên cứu khoa học được công bố và trích dẫn quốc tế năm 2012 tăng khoảng 28% so với năm 2011. Đã đưa vào sử dụng 02 vệ tinh viễn thông và 01 vệ tinh viễn thám. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, trong 3 năm đã có khoảng 11.700 giao dịch với tổng giá trị trên 5.680 tỷ đồng. Nhiều thành tựu khoa học công nghệ hiện đại được ứng dụng rộng rãi, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, thông tin, y tế… góp phần thiết thực vào phát triển và bảo vệ đất nước.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng. Đã rà soát, bổ sung thể chế và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng với tầm nhìn tổng thể, dài hạn. Tập trung khắc phục tình trạng đầu tư công dàn trải, kém hiệu quả. Tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước với nhiều hình thức (BOT, BT, BOO, PPP) cho phát triển kết cấu hạ tầng. Nhiều công trình giao thông, thủy lợi, năng lượng, viễn thông, hạ tầng đô thị đã được đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Đang tiếp tục đầu tư xây dựng nhiều công trình mới quan trọng thiết yếu [Đưa vào sử dụng các tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, Cầu Giẽ - Ninh Bình, vành đai 3 Hà Nội đoạn Thanh Trì – Mai Dịch, QL 51 (mở rộng), các cầu: Rồng, Trần Thị Lý (Đà Nẵng), Rào II, Khuể (Hải Phòng), Bến Thủy II (Nghệ An), Cảng Cái Mép - Thị Vải, Sân bay: Đà Nẵng, Phú Quốc. Về thủy điện: Sơn La, Đồng Nai 4, Kanak…; nhiệt điện: Quảng Ninh 2, Ô Môn 1, Duyên Hải 3…..
5. Văn hóa, xã hội có tiến bộ; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống nhân dân có bước cải thiện
Thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo việc làm, nhất là đào tạo nghề, hỗ trợ tín dụng. Ước cả năm tạo việc làm cho khoảng 1,54 triệu người; 3 năm khoảng 4,6 triệu người, trong đó xuất khẩu lao động 253 nghìn người. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị luôn ở mức dưới 4%, hiện khoảng 3,48%.
Chính sách tiền lương từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng dần, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước [Trong 3 năm qua, lương tối thiểu chung tăng 35,3% (từ 850 ngàn đồng/tháng cuối năm 2010 lên 1.150 ngàn đồng/tháng hiện nay].. Thu nhập dân cư được nâng lên [từ 1,38 triệu đồng/tháng năm 2010 lên 2 triệu đồng/tháng năm 2012]. Điều kiện lao động và quan hệ lao động có bước được cải thiện; tranh chấp lao động và đình công giảm mạnh [Trong 8 tháng đầu năm 2013 xảy ra 236 cuộc đình công, giảm 180 cuộc so với cùng kỳ năm 2012].
Số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng [Đến hết tháng 9/2013, tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) là 10,8 triệu người, có trên 400 nghìn người được hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp]. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,2% cuối năm 2010 còn 9,6% cuối năm 2012 và dự kiến còn 7,8% vào cuối năm 2013. Thành tựu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao [Là 1 trong 38 quốc gia được Tổ chức Lương thực Liên Hợp Quốc (FAO) công nhận thành tích nổi bật trong đấu tranh xóa đói giảm nghèo].
Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công và hỗ trợ các đối tượng chính sách. Trên 98% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú. Số người hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên tăng từ 1,7 triệu cuối năm 2010 lên trên 2,5 triệu năm 2013. Các chương trình nhà ở xã hội, cụm tuyến dân cư ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhà ở tránh lũ ở khu vực miền Trung được tích cực thực hiện.
Mạng lưới và cơ sở vật chất kỹ thuật y tế tiếp tục phát triển. Chất lượng bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh được nâng lên. Y tế dự phòng được quan tâm, không để bùng phát dịch bệnh lớn. Đã triển khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện. Ưu tiên đầu tư cho các bệnh viện quá tải cao, nhất là tuyến trung ương và tuyến cuối [Bệnh viện K, Bạch Mai, Nhi Trung ương, Nhi thành phố Hồ Chí Minh, Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Rẫy, Phụ sản Trung ương, Việt Đức, Viện Huyết học truyền máu Trung ương]. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 63% năm 2010 lên 71,2% năm 2013. Tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS được khống chế dưới 0,3% dân số.
Tốc độ tăng dân số được kiểm soát. Công tác chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, gia đình, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ có tiến bộ.
Văn hóa, thể thao được quan tâm phát triển. Chú trọng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được công nhận là di sản văn hóa quốc gia và thế giới [Trong 3 năm được UNESCO công nhận thêm 03 di sản văn hóa thế giới, nâng tổng số lên 12]. Thông tin truyền thông phát triển nhanh [Nằm trong số 20 quốc gia có số người sử dụng internet lớn nhất thế giới].
6. Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng cường quản lý tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Cơ bản hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực hiện nhiều giải pháp để quản lý, sử dụng có hiệu quả đất trồng lúa. Tích cực thực hiện Chiến lược, Nghị quyết của Chính phủ về bảo vệ môi trường và chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững. Kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nâng cao năng lực phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.
7. Phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt được một số kết quả
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy và thực hiện nhiều giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc kiểm tra và công khai kết quả xử lý các vụ việc tham nhũng. Trong gần 3 năm, qua thanh tra đã phát hiện 319 vụ việc với 517 cá nhân có hành vi liên quan đến tham nhũng [Kiến nghị thu hồi 485,5 tỷ đồng (đã thu được 139 tỷ đồng); kiến nghị xử lý hành chính 17 tập thể và 218 cá nhân]; chuyển cơ quan điều tra 111 vụ và 235 cá nhân; xử lý trách nhiệm 52 người đứng đầu.
8. Quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia được bảo đảm; hoạt động đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích cực
Tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân được tăng cường. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội nhân dân được nâng lên theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đi nhanh vào hiện đại một số lực lượng cần thiết và có tầm chiến lược.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Thế trận an ninh nhân dân và lực lượng công an nhân dân được tăng cường. Bảo vệ an toàn tuyệt đối các mục tiêu và các sự kiện quan trọng của đất nước. Giữ vững an ninh trật tự trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm. Ngăn chặn kịp thời các âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và chống phá đất nước. Xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp.
Công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội được tập trung chỉ đạo. Tội phạm xâm phạm trật tự xã hội được kiềm chế. Đã triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức, nhất là tội phạm kiểu xã hội đen, tội phạm ma túy, tội phạm kinh tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao… Trật tự an toàn giao thông có nhiều chuyển biến tích cực. Tai nạn giao thông giảm; ùn tắc giao thông ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã được khắc phục một bước [ Năm 2011, xảy ra 44.548 vụ, làm chết 11.395 người, bị thương 48.734 người (so với năm 2010, giảm 10,4% về số vụ, giảm 1,86% số người chết, giảm 4,5% số người bị thương). Năm 2012, xảy ra 36.409 vụ, làm chết 9.849 người, bị thương 38.064 người (so với 2011, giảm 18,2% số vụ, giảm 13,6% số người chết, giảm 21,8% người bị thương). Tính đến ngày 15/9/2013, xảy ra 21.861 vụ, làm chết 7.040 người, bị thương 21.780 người (so với cùng kỳ năm 2012 giảm 5,67% số vụ, tăng 2,01% số người chết, giảm 11,11% số người bị thương].
Công tác đối ngoại được đẩy mạnh toàn diện; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đã chủ động, kiên định trong đấu tranh khẳng định và bảo vệ chủ quyền, lợi ích chính đáng của đất nước và bảo hộ công dân.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và tăng cường đối thoại chiến lược với nhiều đối tác quan trọng. Đã nâng cấp quan hệ song phương với một số quốc gia thành đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện [Đã thiết lập 7 quan hệ đối tác chiến lược, nâng tổng số lên 14 đối tác.]; đưa quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, đối tác truyền thống đi vào chiều sâu. Đã chủ động tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động của ASEAN và của các tổ chức, các diễn đàn khu vực và quốc tế; đóng góp thiết thực vào giải quyết những vấn đề khu vực và toàn cầu vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Xử lý phù hợp trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông và những vấn đề mới phát sinh. Tạo được sự đồng tình ủng hộ ngày càng cao của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta.
Tích cực khai thác thuận lợi và khắc phục khó khăn trong thực hiện các Hiệp định thương mại đầu tư đã ký kết, đồng thời chủ động tham gia đàm phán các Hiệp định thương mại tự do khác để mở rộng thị trường, huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế.
Trong những năm qua, bằng các giải pháp và sự phối hợp hiệu quả, công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại đã góp phần quan trọng tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho bảo vệ và phát triển đất nước; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại việc thực hiện kế hoạch năm 2013, trong 15 chỉ tiêu được Quốc hội thông qua, có 11 chỉ tiêu ước đạt và vượt kế hoạch, 2 chỉ tiêu xấp xỉ đạt và 2 chỉ tiêu không đạt [Các chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch là: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nhập siêu, tốc độ tăng giá tiêu dùng, giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi ở khu vực thành thị, tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, số giường bệnh/1 vạn dân, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường, tỷ lệ che phủ rừng. Hai chỉ tiêu xấp xỉ đạt kế hoạch là tăng trưởng GDP (đạt 5,4% so với kế hoạch 5,5%) và tạo việc làm (tạo được 1,54 triệu việc làm so với kế hoạch 1,6 triệu). Hai chỉ tiêu không đạt kế hoạch là tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP (đạt 29,1% so với kế hoạch 30%) và tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước/GDP (5,3% so với kế hoạch là 4,8%).] Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn và phải tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng an ninh, đạt được kết quả nêu trên là cố gắng lớn của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM
Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn những nổi lên một số hạn chế, yếu kém. Đó là:
1. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát nhưng chưa vững chắc.
Cân đối ngân sách khó khăn, bội chi cao hơn kế hoạch. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu còn chậm, chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. Hoạt động của một số tổ chức tín dụng chưa thật an toàn. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán còn trầm lắng. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP không đạt kế hoạch [Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP năm 2011 đạt 33,3%, năm 2012 đạt 30,5% và năm 2013 ước đạt 29,1%]. Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
2. Sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn.
Nợ xấu còn cao[Đến cuối tháng 8/2013, tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng là 4,64%]. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tăng trưởng GDP chưa đạt kế hoạch (5,4% so với kế hoạch 5,5%). Công nghiệp tăng trưởng còn chậm [9 tháng năm 2013 tăng 5,2%, ước cả năm tăng trên 5,4%]. Xuất khẩu nông sản khó khăn, hiệu quả còn thấp. Khả năng phòng tránh, giảm nhẹ tác hại của thiên tai đối với sản xuất và đời sống, nhất là sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế [Thiệt hại do thiên tai gây ra khoảng 0,53% GDP năm 2011 và khoảng 0,54% GDP năm 2012].
3. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm so với yêu cầu.
Nhiều ngành, sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp, chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đổi mới công nghệ còn chậm. Hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) đầu tư còn thấp [của Hàn Quốc giai đoạn 1961 - 1980 là 3,0; của Đài Loan giai đoạn 1961 - 1980 là 2,7; của Thái Lan giai đoạn 1981 - 1995 là 4,1; của Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2006 là 4,0; của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010 là 6,7 và giai đoạn 2011 - 2013 là 5,53]. Giải quyết nợ đọng trong xây dựng cơ bản còn chậm. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng chưa đạt yêu cầu; quản trị doanh nghiệp chậm đổi mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều hạn chế. Tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới còn chậm, ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội.
4. Triển khai thực hiện 3 đột phá chiến lược còn chậm.
Cải cách thể chế chưa đồng bộ, chưa có cơ chế chính sách đột phá thúc đẩy phát triển. Quy trình xây dựng, chất lượng và tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách còn nhiều bất cập. Cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu. Kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm, công tác giám sát, thanh tra còn nhiều hạn chế. Chất lượng giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu lao động chất lượng cao. Chưa chú trọng đào tạo lại và đào tạo nâng cao. Việc thu hút người có trình độ cao vào bộ máy hành chính nhà nước còn nhiều vướng mắc. Đóng góp của khoa học công nghệ vào phát triển kinh tế - xã hội chưa nhiều. Hệ thống kết cấu hạ tầng vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, chưa có cơ chế chính sách hiệu quả để thu hút mạnh đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước.
5. Lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Giải quyết việc làm chưa đạt kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Khoảng cách giàu - nghèo còn lớn. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân nhiều mặt còn hạn chế, một số vụ việc gây bức xúc trong xã hội. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm. Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chưa đạt yêu cầu; tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế chưa được ngăn chặn có hiệu quả; nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong xã hội. Công tác quản lý thông tin, báo chí, nhất là trên internet vẫn còn bất cập.
6. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Kỷ luật kỷ cương trong quản lý, khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản còn chưa nghiêm. Một số công trình thủy điện chưa thực hiện tốt yêu cầu về an toàn và bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường tại nhiều khu, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, lưu vực sông chậm được cải thiện. Khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu vẫn còn hạn chế. Tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn chậm được khắc phục.
7. Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu so với mục tiêu đề ra.
Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng. Công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra hiệu quả chưa cao, ít phát hiện tham nhũng. Xử lý các vụ việc tham nhũng còn chậm. Tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức gây bức xúc trong nhân dân chậm được khắc phục. Lãng phí thời gian, nguồn lực còn lớn. Ý thức tiết kiệm chưa được đề cao.
8. Quốc phòng, an ninh có mặt còn hạn chế và tiềm ẩn những nguy cơ, thách thức.
Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều thách thức. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định ở một số địa bàn. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng còn nhiều bất cập. Việc khắc phục tình trạng lộ lọt bí mật Nhà nước và đấu tranh ngăn chặn hành vi lợi dụng internet gây phương hại cho đất nước hiệu quả chưa cao. Tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn còn nhiều bức xúc. Tai nạn giao thông còn diễn biến phức tạp. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều.
III. NGUYÊN NHÂN
Những hạn chế, yếu kém trên đây do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Bên cạnh những vấn đề mới phát sinh vẫn còn những tồn tại của nhiều năm trước.
1) Tình hình thế giới biến động phức tạp, khó lường. Khoa học công nghệ phát triển vượt bậc; cạnh tranh trên thị trường thế giới hết sức gay gắt, toàn cầu hóa diễn ra nhanh, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng lớn. Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng. Những biến động bên ngoài tác động trực tiếp, tức thì đến kinh tế xã hội trong nước; trong khi tư duy phát triển và khả năng nắm bắt, phân tích, dự báo chưa đáp ứng kịp yêu cầu nên nhiều chính sách, giải pháp đề ra chưa kịp thời, phù hợp.
2) Nhận thức trên một số vấn đề về chủ trương, quan điểm đã được đề ra vẫn còn khác nhau dẫn đến đổi mới thể chế, chính sách còn ngập ngừng, thiếu nhất quán, nhất là về vai trò của nhà nước và kinh tế nhà nước trong kinh tế thị trường, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, sở hữu và quyền sử dụng đất đai, giá cả một số mặt hàng và dịch vụ công thiết yếu… chưa tạo được đột phá để huy động mạnh mọi nguồn lực cho phát triển. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền vẫn chưa đủ rõ, chưa đáp ứng kịp yêu cầu trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
3) Quản lý nhà nước còn nhiều mặt chưa tốt. Tổ chức thực hiện tuy có có nhiều cố gắng nhưng còn chậm, hiệu quả chưa cao. Chưa tập trung được cao nhất nguồn lực và thời gian để ứng phó với tác động hết sức nặng nề của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Kính thưa các đồng chí!
Nhìn một cách tổng quát, có thể khẳng định năm 2013 cúng như trong 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm 1011-2015, mặc dù trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trầm trọng. Ở trong nước bên cạnh những thuận lợi chúng ta cúng còn nhiều khó khăn, thách thức lại phải đối phó với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch song tình hình kinh tế, xã hội nước ta cơ bản ổn định. Tuy còn những hạn chế, yếu kém, song chúng ta đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế xã hội đã xác định; quốc phòng, an ninh chính trị được giữ vững. Đây là cơ sở rất thuận lợi cho chúng ta trong những năm tiếp theo. Đây cũng là cơ sở thực tiễn khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, năng lực điều hành của chính phủ đồng thời cũng là cơ sở để đấu tranh làm thất bại âm mưu tuyên truyên, xuyên tạc của các thế lực thù địch với cách mạng nước ta./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét